Cần quan tâm đến chăn nuôi hữu cơ

Xung quanh câu chuyện về thị trường chăn nuôi, ông Nguyễn Xuân Dương, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT) đã có đôi điều chia sẻ với PV Đặc san Người Chăn Nuôi.

Nhiều người cho rằng, việc giá lợn hơi giảm là do người chăn nuôi tăng “nóng” đàn lợn trong thời gian qua, ý kiến của ông về vấn đề này?

Đúng, ngành chăn nuôi lợn Việt Nam phát triển mạnh nhiều năm qua, nhất là 2 năm gần đây, có thể được liệt vào “nóng” từ cuối 2015, nửa đầu 2016. Điều này đã được Bộ NN&PTNT cảnh báo ngay những thời điểm giá lợn hơi ở mức 55.000 – 58.000 đồng/kg. Bộ đã chỉ đạo các địa phương không tăng quy mô đàn nái bằng mọi cách, mà nên theo hướng thay đổi cơ cấu chất lượng giống và phương thức chăn nuôi phù hợp với thị trường trong nước, hội nhập quốc tế. Tuy nhiên khuyến cáo này chưa được người chăn nuôi quán triệt đầy đủ, đương nhiên không thể trách họ được vì quy luật giá trị mà.

Giá lợn xuống thấp có phải do thị trường Trung Quốc không, thưa ông?

Hiện, lợn và thịt lợn của Việt Nam chưa có trong Danh mục hàng hóa được phép nhập khẩu vào thị trường Trung Quốc và thực tế đúng như vậy, vì có tới trên 90% sản phẩm của ngành chăn nuôi lợn đều được tiêu thụ tại thị trường nội địa. Chỉ khoảng 10% sản phẩm xuất khẩu sang các nước xung quanh; trong đó phần nhiều là Trung Quốc bằng hình thức tiểu ngạch. Vậy tại sao lại nói là phụ thuộc. Vấn đề ở đây là thông tin chưa thực sự đầy đủ, thậm chí gây bất lợi cho sản xuất trong nước.

Lâu nay dường như bà con chăn nuôi vẫn chủ yếu nuôi theo phong trào, nghĩa là khi giá lợn lên thì đua nhau tăng đàn ồ ạt, đây có phải là điểm nghẽn lớn của ngành hay không?

Đây là thực tế đúng của ngành nông nghiệp nước ta từ lâu nay vốn đang được tái cơ cấu tập trung lại từ kinh tế hộ nhỏ lẻ với quá nhiều người tham gia vào quá trình sản xuất và cung ứng nông sản, thực phẩm. Tuy nhiên, gần đây đã giảm đi khá nhiều do cạnh tranh mà không ít các nông hộ sản xuất theo hình thức tận dụng khó có thể tồn tại; nhất là sản xuất chăn nuôi, lĩnh vực chứa đựng nhiều yếu tố kỹ thuật, yếu tố công nghiệp và hội nhập cao đòi hỏi người sản xuất, kinh doanh phải chuyên nghiệp và nắm bắt được thị trường.

Trở lại vấn đề thị trường, hiện tổng đàn lợn cả nước khoảng 29,1 triệu con; sản lượng sản lượng thịt lợn xuất chuồng là 3,7 triệu tấn. Với nguồn cung dồi dào, dư thừa lợn không phải là chuyện lạ. Tuy nhiên lại có một nghịch lý, người tiêu dùng trong nước vẫn phải mua thịt lợn giá cao, theo ông tại sao lại xảy ra tình trạng này?

Hiện, giá lợn tại chuồng thì rất rẻ, trong khi giá thịt lợn đến tay người tiêu dùng vẫn cao, đây là một thực tế bất cập mà thua thiệt luôn thuộc về người chăn nuôi. Vấn đề này khiến những người làm quản lý, làm nông nghiệp và cả người tiêu dùng đều không mong muốn, thậm chí là rất buồn! Có nhiều nguyên nhân, nhưng sâu xa vẫn là chúng ta chưa thực sự ứng xử một cách đầy đủ từ công tác quản lý, đến hoạt động sản xuất, giết mổ, chế biến và tiêu thụ các phẩm chăn nuôi một cách chuyên nghiệp theo kinh tế thị trường, mặc dù về chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước đã rõ và khá hoàn chỉnh rồi. Nếu chỉ đổ cho riêng mấy ông thương lái thì nhất định không thỏa đáng, vì họ là những người kinh doanh, mà kinh doanh thì đương nhiên không phải là từ thiện. Tuy nhiên, tôi cũng thực sự mong muốn rằng, những người thương lái, thu mua và giết mổ cần trách nhiệm chia sẻ với người chăn nuôi vỗn dĩ là gốc tạo ra ngành nghề của họ. Nếu chúng ta cùng chung tay thì hoàn toàn có thể nâng giá mua lợn lên cho người chăn nuôi, vì giá lợn trong nước hiện hoàn toàn do người Việt quyết định chứ không phụ thuộc vào bất kỳ ai.

Ông có thể đưa ra một số giải pháp để bà con chăn nuôi bình tĩnh vượt qua khó khăn hiện nay?

Trước mắt để người chăn nuôi bình tĩnh vượt qua, đương nhiên là không phải ngày một, ngày hai, theo tôi cần triển khai một số vấn đề sau: Các cơ quan quản lý và truyền thông cần thông tin đầy đủ kịp thời về giá cả thị trường ở các vùng để người chăn nuôi và người tiêu dùng biết, tránh thương lái lợi dụng ép giá; Các địa phương triển khai đầy đủ nội dung theo Văn bản số 11205/BNN-CN ngày 29/12/2016 của Bộ trưởng Bộ NN&PTNT.

chan-nuoi-huu-co

Các doanh nghiệp kinh doanh vật tư thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, tổ chức chứng nhận sự phù hợp lĩnh vực chăn nuôi phải tiết kiệm chi phí sản xuất, giảm lợi nhuận để hạ giá vật tư đầu vào giúp người chăn nuôi. Kiến nghị Chính phủ chỉ đạo các tổ chức tín dụng khoanh nợ, giãn nợ và Nhà nước hỗ trợ một phần lãi suất vay cho người chăn nuôi lợn thuộc đối tượng chính sách, gia đình khó khăn và các cơ sở chăn nuôi duy trì đàn giống.

Người chăn nuôi cần rà soát đánh giá loại thải ngay những con giống, nhất là những lợn nái kém chất lượng và không bán phá giá lợn trên thị trường. Quản lý thị trường tăng cường chức năng kiểm soát và vận động thương lái thực sự chia sẻ với người chăn nuôi để cùng người tiêu dùng mua lợn và thịt lợn có lợi cho người nông dân.

Từ thực tế này, chúng ta cần phải nhìn nhận lại vấn đề điều chỉnh thị trường cung cầu như thế nào cho hợp lý?

Trước mắt là triển khai ngay được một số nội dung như tôi đã trao đổi ở trên. Còn căn bản vấn đề này vẫn là tổ chức tái cơ cấu lại chăn nuôi theo các chuỗi liên kết sản xuất và gia tăng công tác quản lý kiểm soát các hoạt động kinh doanh có điều kiện; trong đó có hoạt động giết mổ và chế biến, tiêu thụ các sản phẩm chăn nuôi. Phát huy tối đa vai trò chủ động của các doanh nghiệp và hiệp hội ngành hàng trong vấn đề tự kiểm soát chất lượng và thị phần sản phẩm.

Về lâu dài, theo ông, ngành chăn nuôi Việt Nam cần có những giải pháp gì để phát triển bền vững?

Để ngành chăn nuôi phát triển bền vững trong thời gian tới, theo tôi phải đáp ứng được hai đòi hỏi. Thứ nhất, có hiệu quả cả về kinh tế và xã hội, vì ngoài nhiệm vụ cung cấp thực phẩm, chăn nuôi còn góp phần lớn vào an sinh xã hội, việc làm, thu nhập cho khu vực nông dân, nông thôn. Thứ hai không gây hủy hoại môi trường, vì chăn nuôi thiếu kiểm soát cũng là trở ngại không nhỏ với môi trường.

Để làm được những điều trên, ngành chăn nuôi cần tập trung: Trung ương rà soát điều chỉnh quy hoạch, xác định một một vài sản phẩm chủ lực có lợi thế xuất khẩu hoặc thay thế nhập khẩu để huy động đầu tư xã hội phát triển một cách bài bản tạo thương hiệu quốc gia Việt Nam để cạnh tranh hội nhập. Các địa phương tiếp tục rà soát điều chỉnh quy hoạch chăn nuôi phù hợp với quy hoach chung của cả nước; trong đó đặc biệt phải gắn với thị trường và phát huy lợi thế so sánh để tạo ra các sản phẩm chủ lực và khác biệt cho nhu cầu tiêu dùng trong nước, gắn với phát triển du lịch sau đó mới là xuất khẩu. Trong quy hoạch, không nên đặt mục tiêu về tăng quy mô đàn vì nhìn chung đàn gia súc, gia cầm hiện đã vượt ngưỡng, cần thay đổi cơ cấu chất lượng đàn vật nuôi và cơ cấu về phương thức chăn nuôi; trong đó cần quan tâm đến phương thức chăn nuôi hữu cơ là xu thế của tiêu dùng thực phẩm và là thế mạnh của chăn nuôi nông hộ đặc thù của nước ta. Tổ chức sản xuất theo các chuỗi liên kết khép kín như tôi đã nói ở trên, đảm bảo đến năm 2020 hầu hết những hộ chăn nuôi có tính chất hàng hóa phải nằm trong một chuỗi liên kết sản xuất. Làm tốt công tác quản lý chất lượng và an toàn thực phẩm sản phẩm chăn nuôi, kết hợp áp dụng khoa học công nghệ để giảm giá thành chăn nuôi chính là cách tốt nhất để tìm thị trường cho các sản phẩm chăn nuôi Việt Nam.

Hà Trung (Báo Người chăn nuôi)